Lược sử Đại_tướng_(Liên_Xô)

Hình thành

Trong lịch sử quân sự Đế quốc Nga, cấp bậc đại tướng lục quân (генерал армии) chưa từng được thành lập dù có những cấp bậc được xem là tương đương như генерал от инфантерии (1722-1763, 1796-1917), генерал от кавалерии (1722-1763, 1796-1917), генерал-фельдцейхмейстер (1722-1796), генерал-аншеф (1763—1796), генерал от артиллерии (1796-1917), инженер-генерал (1796-1917). Năm 1935, chế độ quân hàm trong Hồng Quân được thành lập. Cấp bậc Tư lệnh Tập đoàn quân bậc 1 được xếp là cấp bậc quân sự cao cấp trong Hồng quân, chỉ sau cấp bậc Nguyên soái, được phong cho các quân nhân chỉ huy biên chế trên cấp tập đoàn quân. Đây được xem là tiền thân của cấp bậc Đại tướng sau này.

Ngày 7 tháng 5 năm 1940, Đoàn Chủ tịch Xô viết Tối cao Liên Xô ra sắc lệnh thành lập hệ thống quân hàm mới trong Hồng quân và Hải quân Liên Xô. Theo đó, cấp bậc Đại tướng được thành lập. Ba quân nhân đầu tiên thụ phong cấp bậc này là Quân đoàn trưởng Georgy Zhukov (vượt cấp), các Tư lệnh Tập đoàn quân bậc 2 Kirill MeretskovIvan Tyulenev. Trước chiến tranh, thêm 2 quân nhân được thăng cấp từ Thượng tướng lên Đại tướng là Tư lệnh Quân khu Viễn Đông Iosif Apanasenko và Tư lệnh Quân khu đặc biệt miền Tây Dmitry Pavlov.

Trong Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại

Cũng giống như cấp bậc Nguyên soái Liên Xô, quân hàm Đại tướng không được phong thăng thêm cho quân nhân nào cho đến tháng 1 năm 1943, khi Tổng tham mưu trưởng, Thượng tướng Aleksandr Vasilevsky được thăng cấp Đại tướng với cấp hiệu mới. Từ đó cho đến hết chiến tranh, cấp bậc Đại tướng được trao cho 18 chỉ huy quân sự khác. Mười đại tướng được phong trong Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại về sau được thăng lên bậc Nguyên soái Liên Xô (6 trong số đó được thăng ngay trong chiến tranh). Trong số các đại tướng còn lại, nổi bật nhất có Nikolay VatutinIvan Chernyakhovsky, là các tư lệnh phương diện quân trẻ, cũng như lãnh đạo Bộ Tổng tham mưu, Aleksey Antonov.

Trong Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại, các đại tướng thường chỉ huy cấp phương diện quân. Như Georgy Zhukov trong một thời gian ngắn là Tư lệnh Phương diện quân Tây; Iosif Apanasenko và Kirill Meretskov cũng từng giữ các chức vụ Phó tư lệnh phương diện quân (VoronezhTây) trong một thời gian ngắn. Meretskov còn giữ chức Tư lệnh của các Tập đoàn quân số 7, số 4 và số 33, đều thuộc Phương diện quân Tây.

Trong thời kỳ cuối của cuộc chiến, hầu hết các đại tướng đều giữ chức vụ Phó tư lệnh phương diện quân, trừ một số ngoại lệ là Ivan Petrov giữ chức Tham mưu trưởng Phương diện quân Ukraina 1, cũng như Andrey YeryomenkoMaksim Purkayev, đều là các tư lệnh phương diện quân.

Ngoài ra, khi hệ thống cấp bậc riêng của các sĩ quan chính trị và lực lượng an ninh nhà nước bị bãi bỏ (lần lượt vào các năm 1942 và 1945), các cán bộ cao cấp trong 2 hệ thống này cũng được chuyển đổi sang cấp bậc quân sự. Năm 1944, Thượng tướng Nikolay Bulganin, Ủy viên Hội đồng Quân sự Phương diện quân Belorussia 1, trở thành vị tướng chính trị đầu tiên được phong quân hàm Đại tướng. Tháng 7 năm 1945, Ủy viên nhân dân An ninh Nhà nước Liên Xô (tương đương Bộ trưởng An ninh) Ủy viên An ninh nhà nước bậc 1 Vsevolod Merkulov được đồng hóa sang cấp bậc Đại tướng.

Sau chiến tranh

Kể từ khi thành lập đến năm 1949, đã có 30 cá nhân được phong quân hàm Đại tướng. Sau chiến tranh, cấp bậc Đại tướng thường được trao cho các sĩ quan cao cấp của Bộ Quốc phòng và Bộ Tổng tham mưu, và cũng như cho các chỉ huy quân khu có công trạng to lớn. Từ những năm 1970, nó cũng có thể được trao cho những người đứng đầu KGBBộ Nội vụ. Cụ thể đối với các chức vụ như sau:

  • Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Liên Xô
  • Lãnh đạo Tổng cục chính trị Quân đội và Hải quân Liên Xô
  • Tổng cục trưởng Tổng cục Tình báo - Phó Tổng Tham mưu trưởng Lực lượng Vũ trang Liên Xô
  • Chủ tịch KGB Liên Xô (không phải trong mọi trường hợp)
  • Phó chủ tịch thứ nhất KGB Liên Xô (không phải trong mọi trường hợp)
  • Bộ trưởng Nội vụ Liên Xô (không phải trong mọi trường hợp)
  • Tổng cục trưởng Tổng cục Biên phòng KGB Liên Xô (không phải trong mọi trường hợp)
  • Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh Bộ Nội vụ Liên Xô (không phải trong mọi trường hợp)
  • Tư lệnh Quân khu

Trong số các đại tướng thụ phong sau này, nổi bật có Issa Pliyev (người đóng vai trò quan trọng trong Khủng hoảng tên lửa Cuba) và Yuri Andropov (lãnh đạo KGB, sau trở thành lãnh đạo Liên Xô).

Do việc mở rộng phạm vi cá nhân được phong cấp, số lượng đại tướng gia tăng đáng kể trong thời bình: nếu như trong giai đoạn 1950-1969 chỉ có 39 người thụ phong cấp Đại tướng, thì từ năm 1970 đến năm 1991 đã là 64. Từ năm 1967 đến khi Liên Xô tan rã năm 1991, năm nào cũng có đại tướng được phong. Tuổi trung bình của các đại tướng cũng tăng nhẹ (tính theo thời điểm thụ phong) - từ 57 tuổi (1950-1960) lên 59 tuổi (1970-1980).